Ảnh hưởng Søren Kierkegaard

Những tác phẩm của Kierkegaard không được chấp nhận rộng rãi cho đến vài thập niên sau khi ông mất. Ngay cả sau khi Kierkegaard qua đời, Giáo hội Đan Mạch vẫn tỏ ra dè dặt đối với các tác phẩm của ông. Thêm vào đó, ảnh hưởng hạn chế của tiếng Đan Mạch, so với các ngôn ngữ khác như Đức, Pháp và Anh, đã khiến những tác phẩm này hầu như không thể đến tay người đọc ở các nước khác ngoài Đan Mạch.

Nỗ lực học thuật đầu tiên giúp đem tư tưởng Kierkegaard ra khỏi bóng tối đến từ một người đồng hương của ông, Georg Brandes, khi Brandes xuất bản các tác phẩm của Kierkegaard bằng tiếng Đức và tiếng Đan Mạch. Brandes tổ chức những buổi diễn thuyết về tư tưởng Kierkegaard và phổ biến chúng đến phần còn lại của châu Âu.[37] Năm 1877, Brandes ấn hành quyển sách đầu tiên về triết học và cuộc đời Kierkegaard. Nhà soạn kịch Henrik Ibsen bắt đầu chú ý đến Kierkegaard và giới thiệu tác phẩm của ông trên toàn vùng Scandinavia. Trong thập niên 1870, bản dịch tiếng Đức một số tác phẩm của Kierkegaard bắt đầu xuất hiện,[38] nhưng phải đợi đến thập niên 1910 mới có bản dịch tiếng Đức toàn bộ các tác phẩm của Kierkegaard. Những bản dịch này là công cụ hữu hiệu giúp mở rộng ảnh hưởng sâu đậm của Kierkegaard đến các nhà tư tưởng và các tác giả người Đức, Pháp và Anh.

Tượng Kierkegaard, Copenhagen, Đan Mạch.

Thập niên 1930 chứng kiến sự xuất hiện các bản dịch Anh ngữ[39] của Alexander Dru, David F. Swenson, Douglas V. Steere, và Walter Lowrie từ những nỗ lực của chủ biên Charles Williams của Nhà Xuất bản Đại học Oxford. Những bản dịch sau đó, cũng là những ấn bản được sử dụng rộng rãi, được ấn hành bởi Nhà Xuất bản Đại học Princeton trong thập niên 1970, 1980 và 1990, được biên tập bởi Howard V. Hong và Edna H. Hong. Bản dịch chính thức lần thứ ba, với sự bảo trợ của Trung tâm Nghiên cứu Søren Kierkegaard, lên đến 55 tập, dự đoán sẽ hoàn tất sau năm 2009.[40]

Nhiều nhà triết học thế kỷ 20, hữu thần và vô thần, cũng như các nhà thần học đã vay mượn nhiều khái niệm từ Kierkegaard như những ý niệm về sự thống khổ, tuyệt vọng, và tầm quan trọng của cá nhân. Thanh danh triết gia của Kierkegaard lên đến đỉnh điểm trong thập niên 1930, phần lớn là do người ta nhận ra ông là tiền thân của phong trào hiện sinh đang lên. Tuy nhiên, ngày nay Kierkegaard được nhìn nhận là nhà tư tưởng quan trọng và có tầm ảnh hưởng rộng lớn.[41] Trong số những nhà triết học và thần học chịu ảnh hưởng của Kierkegaard có thể kể tên Hans Urs von Balthasar, Karl Barth, Simone de Beauvoir, Niels Bohr, Dietrich Bonhoeffer, Emil Brunner, Martin Buber, Rudolf Bultmann, Albert Camus, Martin Heidegger, Abraham Joshua Heschel, Karl Jaspers, Gabriel Marcel, Maurice Merleau-Ponty, Reinhold Niebuhr, Franz Rosenzweig, Jean-Paul Sartre, Joseph Soloveitchik, Paul Tillich, và Miguel de Unamuno. Karl Popper gọi Kierkegaard là "nhà cải cách vĩ đại của nền đạo đức Cơ Đốc, người đã chỉ ra rằng tình trạng giáo hội lúc ấy là một sự đạo đức giả đi ngược lại đạo đức Cơ Đốc và tính nhân bản".[42]

Các triết gia đương đại như Emmanuel Lévinas, Hans-Georg Gadamer, Jacques Derrida, Jürgen Habermas, Alasdair MacIntyre, và Richard Rorty, dù đôi khi có chỉ trích Kierkegaard, cũng đã chấp nhận dung hòa một phần tư tưởng của ông.[43][44][45]

Kierkegaard có ảnh hưởng đáng kể trên văn học thế kỷ 20. Những tên tuổi chịu tác động bởi tư tưởng Kierkegaard có W. H. Auden, Jorge Luis Borges, Hermann Hesse, Franz Kafka,[46] David Lodge, Flannery O'Connor, Walker Percy, Rainer Maria Rilke, và John Updike.[47]

Ảnh hưởng của Kierkegaard cũng được tìm thấy trong chuyên ngành tâm lý học và tâm lý học Cơ Đốc,[48] cũng như tâm lý học và liệu pháp hiện sinh.[27] Trong số những nhà tâm lý học và liệu pháp học hiện sinh chịu ảnh hưởng của ông có Ludwig Binswanger, Viktor Frankl, Erich Fromm, Carl Rogers, và Rollo May.

Kierkegaard đã báo trước sự nổi tiếng của mình sau khi chết, nhìn thấy trước tư tưởng của mình sẽ là chủ đề của những cuộc nghiên cứu sâu rộng. Ông viết trong nhật ký,

Điều mà thời đại này cần không phải là một thiên tài – họ đã có đủ thiên tài rồi - nhưng họ cần một thánh tử đạo, là người biết vâng phục [Thiên Chúa] cho đến chết, để có thể dạy người khác học biết vâng phục. Điều thời đại này cần là sự thức tỉnh. Rồi có một ngày, không chỉ những tác phẩm của tôi mà toàn bộ cuộc đời tôi, toàn bộ sự huyền nhiệm này sẽ được đào sâu nghiên cứu. Bởi vì tôi không thể quên sự phù hộ của Chúa, nên ước nguyện sau cùng của tôi là mọi sự làm sáng danh Ngài. - Søren Kierkegaard,[9] Nhật ký (20 tháng 11 năm 1847)